13 tháng 7, 2007

Sử dụng vật liệu compozit sản xuất từ nhựa PET phế thải thay thế gỗ trong sửa chữa tháp làm lạnh nước tại Cty xi măng Bỉm Sơn

Sử dụng vật liệu compozit sản xuất từ nhựa PET phế thải thay thế gỗ trong sửa chữa tháp làm lạnh nước tại Cty xi măng Bỉm Sơn
1. Mở đầu:
Trong dây chuyền công nghệ của nhà máy xi măng Bỉm Sơn do Liên Xô thiết kế và xây dựng trước đây có hệ thống tháp làm lạnh nước tuần hoàn có vai trò làm mát dòng nước nóng được dẫn về từ khu vực sản xuất. Mỗi tháp là một hệ thống kết cấu khung thép đàn hồi, kích thước 37 x 16,6 x 1,25 m bên trong chứa hệ thống quạt gió và hệ thống cấu kiện (modul hướng dòng БВЩ - 1 và chớp dập mưa BP – 1 và BP - 2) có tác dụng làm tản nhiệt của dòng nước nóng đưa vào phun trong tháp.

Công suất làm mát nước tối đa của mỗi tháp là 750 m3/h, nước được làm mát từ 400C xuống còn 310C (trong điều kiện nhiệt độ không khí là 300C). Các cấu kiện này được làm từ gỗ, ưu điểm của loại vật liệu này vào thời điểm đó là rẻ tiền, dễ thay thế khi hỏng hóc, dễ dàng gia công, lắp đặt. Tuy nhiên loại vật liệu này cũng mang những nhược điểm cơ bản của vật liệu gỗ truyền thống:
1. Gỗ có độ bền cơ lý kém nên phải làm dày (thiết kế dày ít nhất tới 10mm) điều này làm tăng khối lượng của các cấu kiện, tăng tải trọng tĩnh cho dàn (tổng khối lượng các cấu kiện/dàn là khoảng 93m3, tương đương cỡ 93 tấn khô).
2. Liên kết chính là mộng và dính. Do khả năng cong vênh lớn của gỗ lớn (nếu xử lý sấy tẩm kém) nên các cấu kiện, nhất là ở hệ 2 các mộng này rất chóng hỏng ở các khớp nối, trước cả khi gỗ mục nát.
3. Gỗ có độ hút nước lớn, tuỳ loại gỗ có thể huts nước từ 30%-100% khối lượng khô ban đầu, điều này làm tăng tải trọng tĩnh của dàn từ gấp rưỡi tới gấp đôi khối lượng các cấu kiện gỗ xếp lên dàn, tác động có hại đến độ bền của dàn mưa.
4. Là vật liệu có nguồn gốc thực vật nên gỗ kém bền khí hậu và vi sinh. Điều này đã được thể hiện rất rõ trong thực tế, nếu không ngâm tẩm thích hợp, sau hai năm hầu như đã hỏng. Nhược điểm này có thể khắc phục bằng cách ngâm tẩm hoá chất theo thiết kế ban đầu của Liên Xô để kéo dài tuổi thọ của gỗ nhưng quá trình xử lý này khá phức tạp, chi phí tốn kém.
5. Khi bị nát, các mảnh gỗ bị cuốn theo nước và có thẻ gây hại cho hệ thống đường ống, van nước và các máy móc liên quan đến nước tuần hoàn. Điều này đã được chứng minh trong quá trình hoạt động, khi bảo dưỡng hệ thống đường ống.
6. Môi trường gỗ xốp và ẩm là môi trường lý tưởng cho vi sinh phát triển, xác vi sinh là 1 nguồn bẩn thứ cấp đáng kể đối với nước tuần hoàn trong công nghiệp. Ở các nước công nghiệp phát triển, đối với hệ thống nước tuần hoàn người ta thường phải cho thêm các chất ức chế vi sinh vì lý do này.
7. Việc thay thế các cấu kiện này đòi hỏi một lượng gỗ lớn (93m3 gỗ/ giàn làm lạnh). Mặc dù là nước ở vùng nhiệt đới, có nhiều rừng rậm nhưng với nước ta nói riêng cũng như thế giới nói chung gỗ ngày càng trở nên quý hiếm do nguồn gỗ rừng ngày càng cạn kiệt, việc khai thác bị hạn chế.
Những nhược điểm trên đã dẫn đến việc tìm kiếm một giải pháp vật liệu thay thế cho vật liệu gỗ nhằm giảm chi phí cho quá trình sửa chữa các tháp làm lạnh đồng thời đảm bảo các yêu cầu về mặt kỹ thuật.
Xuất phát từ quan điểm đó, Viện Vật liệu xây dựng đã nghiên cứu, đề xuất phương án thay thế các cấu kiện gỗ bằng cấu kiện Polyme Compozit cốt sợi thủy tinh nền nhựa Polyeste không no sản xuất từ nhựa PET phế thải. Qua quá trình nghiên cứu, sản xuất, thi công lắp đặt và đưa vào sử dụng thử sản phẩm từ vật liệu gỗ truyền thống. Điều này không những đem lại hiệu quả kinh tế - kỹ thuật cho công tác sửa chữa tháp làm lạnh mà còn mở ra khả năng ứng dụng rộng rãi của loại vật liệu này tại thị trường trong nước.
2. Kết quả thực hiện
2.1 Vật liệu Polyme Composit từ nhựa Polyeste không no UPE -1 sản xuất từ nhựa PET phế thải
Vật liệu Polyme Composit là loại vật liệu tổ hợp được hình thành trên cơ sở nền là các chất kết dính polyme với nhiều chủng loại khác nhau như nhựa Epoxy, nhựa Polyeste không no, phenol phomandehyt...được gia cường bằng các loại sợi như sợi cacbon, sợi polyeste, nylon, sợi silic...và các thành phần phụ gia khác. Với những tính năng ưu việt so với các loại vật liệu truyền thống như độ bền riêng, modul đàn hồi riêng cao, chống mài mòn tốt, bền trong các môi trường xâm thực... vật liệu Polyme Compozit ngày càng được ứng dụng rộng rãi trong công nghiệp đóng tàu, chế tạo máy bay, ô tô, vật liệu xây dựng và nhiều lĩnh vực khác của đời sống xã hội.
Cách đây, thực hiện nhiệm vụ của Bộ Xây dựng giao, Viện Vật liệu Xây dựng đã nghiên cứu thành công quy trình chế tạo nhựa Polyeste không no từ nhựa PET phế thải làm nguyên liệu cho sản xuất vật liệu Compozit. Đồng thời, đơn vị cũng đã ứng dụng loại vật liệu này vào sản xuất một số chế phẩm như vỏ tàu cao tốc, bồn chưa nước thải, bể nuôi tôm nước mặn, phao cứu sinh...
2.2 Sản xuất, lắp đặt các kết cấu bằng vật liệu compozit
2.2.1 Phương án thiết kế
Qua nghiên cứu về độ bền của vật liệu Compozit kết hợp với yêu cầu kỹ thuật đối với các cấu kiện làm việc trong dàn làm lạnh, chúng tôi đã thiết kế các cấu kiện bằng compozit có diện tích bề mặt bằng diện tích bề mặt của các cấu kiện gỗ, nhưng về chiều dày của các cấu kiện compozit sẽ bị mỏng đi để giảm tải trọng của toàn bộ dàn làm lạnh, cụ thể là:
+ Hệ thống hướng dòng không khí БВЩ - 1:
- Phần nam chớp gỗ kích thước: 1950 x 100 x 10 (mm) được thay thế bằng tấm Compozit kích thước: 1950 x 1700 x 3 (mm). Quanh các tấm có bổ sung gờ chịu lực dày 10mm, cao 15 mm, nhằm chống cong vênh, tăng cứng cho tấm và toàn khối.
- Phần khung thanh chịu lực gỗ kích thước: 1800 x 50 x 50 (mm) được thay thế bằng khung Compozit kích thước: 1800 x 25 x 20 (mm) đúc liền khối cùng tấm phẳng. Giải pháp này sẽ tăng cường tính đồng nhất và bền vững cho cấu kiện.
- Phần khung thanh đỡ dưới bằng gỗ kích thước: 1900 x 100 x 100 (mm) được thay thế bằng thanh Compozit 1900 x 25 x 25 (mm). Khung đỡ trên cũng được làm bằng thanh Compozit kích thước: 1500 x 30 x 25 (mm). Giữa tấm phẳng và khung đỡ được gia cố với nhau mỗi điểm bằng bu lông Ø6 và vít nở vuông góc Compozit, tạo cho cấu kiện tính vững chắc và chống xô lệch do rung động trong quá trình hoạt động.
- Các thanh giằng chéo được thay thế bằng 4 thanh Compozit hình khối kích thước 750 x 25 x 20 (mm). Các thanh này có tác dụng liên kết hai tấm chớp ngoài cùng với hai tấm chip ở giữa bằng kết cấu bu lông phủ nhựa, có tác dụng cố định các tấm phẳng, chống xô lệch do rung trong quá trình hoạt động.
- Các chớp dập mưa BP-1 và BP-2: Các cấu kiện gỗ: Loại dày 50mm rộng 180 được thay thế bằng cấu kiện compozit dầy 25 mm rộng 180 mm ở dạng khối. Các nan chớp dày 10mm được thay thế bằng nan dày 3mm. Điều này làm giảm khối lượng của cấu kiện từ 30 – 40%.
- Để giảm tải trọng và giá thành sản phẩm, các chi tiết dày 25 mm được chế tạo theo phương pháp đúc chi tiết có đưa lõi gỗ vào giữa. Đây là phương pháp sản xuất chi tiết chịu lực bằng vật liệu Compozit có tiết diện lớn vẫn được áp dụng khi chế tạo các khung, sườn cano, thuyền cao tốc, các bể mạ, bể xử lý nước thải, bể nuôi tôm, bể chế biến thuỷ sản... đang phổ biến ở nước ta cũng như trên thế giới, đây là giải pháp vừa mang tính kinh tế vừa đảm bảo kỹ thuật, bởi khi sản xuất các chi tiết vật liệu compozit có tiết diện lớn nếu sử dụng tất cả là nhựa UPE vừa lãng phí vừa khó gia công bởi khi lượng nhựa sử dụng lớn thì khi đóng rắn lượng nhiệt toả ra cũng lớn dễ gây cháy, hoặc làm cho sản phẩm bị biến dạng, cong vênh. Tuỳ diện tích của chi tiết mà thể tích vật liệu gỗ có thể chiếm 30% - 70% thể tích chi tiết. Gỗ đưa vào thường là gỗ thông, bởi gỗ thông có khả năng hút nhựa tốt, khi bọc compozit nhựa dễ thấm vào gỗ, đóng rắn và tạo ra lớp kết cấu dạng sandwich có cường độ chịu tải và độ bền lâu cao hơn nhiều.
2.2.2 Phương pháp tạo hình
Do đặc điểm là bề mặt các kết cấu tản nhiệt làm việc trong tháp làm lạnh không đòi hỏi tính thẩm mỹ cao, hơn nữa khối lượng sản phẩm lại rất lớn, với nhiều chi tiết, nên chúng tôi đã lựa chọn phương pháp tạo hình cho sản phẩm là phương pháp đúc tiếp xúc với các khuôn được làm bằng khuôn xi măng được tạo trên nền đất. Phương án này vừa đảm bảo cho quá trình thao tác diễn ra nhanh gọn, vừa đảm bảo các sản phẩm không bị cong, vênh khi tháo lắp.
2.3.3 Phương án thi công:
Do các điều kiện về mặt bằng sản xuất, nguồn nguyên liệu nên các chi tiết của các cấu kiện được sản xuất sẵn tại Viện Vật liệu Xây dựng theo phương án nói trên. Sau đó các chi tiết này được chuyển đến hiện trường các tháp làm lạnh, ráp với nhau tạo thành các cấu kiện hoàn chỉnh. Các cấu kiện được đưa chuyển lắp đặt lên dàn làm lạnh vào các giá đỡ và quang treo bằng hệ thống ròng rọc. Tổng khối lượng bao gồm 272 cấu kiện hướng dòng БВЩ -1 và 122 cấu kiện chớp dập mưa BP-1, BP – 2 đã được đặt nhanh gọn, không xảy ra sự cố hay hỏng hóc nào.
3. Kết luận:
1. Việc thay thế các kết cấu gỗ vật liệu compozit để sửa chữa tháp làm lạnh của Công ty xi măng Bỉm Sơn là việc làm cần thiết, mang lại hiệu quả kinh tế, kỹ thuật cao, tuổi thọ cả giàn sẽ tăng lên gấp nhiều lần.
2. Trọng tải tĩnh của giàn giảm từ 40 – 50 tấn, do vậy các hệ thống gia cố để đỡ tải trọng cũng ít hơn rất nhiều. Chất lượng nước tốt hơn, tránh sự cố do mảnh gõ bị vỡ, tắc hệ thống ống thoát. Kéo dài chu kỳ bảo dưỡng, tăng hiệu suất sử dụng, tiết kiệm kinh phí, nhân công sửa chữa.
3. Hạn chế việc sử dụng hàng trăm m3 gỗ trong mỗi kỳ sửa chữa góp phần hạn chế việc khai thác, sử dụng gỗ rừng, bảo vệ thiên nhiên.
4. Quá trình sản xuất, thi công đơn giản, thời gian thi công nhanh chóng, tính an toàn trong sản xuất cao hơn nhiều so với gỗ. Khi sản phẩm bị hư hại một phần, việc sửa chữa thay thế vẫn có thể tiến hành một cách đơn giản, nhanh chóng tiện lợi.
5. Sản phẩm đưa vào sử dụng đến nay sau gần một năm vẫn chưa hề có dấu hiệu suy giảm chất lượng.
6. Thực tế trên cho thấy khả năng ứng dụng to lớn của sản phẩm vật liệu compozit góp phần thúc đẩy công tác nghiên cứu, sản xuất vật liệu các loại vật liệu Compozit với các tính năng đặc biệt thay thế cho các vật liệu truyền thống.

(Nguồn tin: Theo Tạp chí Thông tin KHCN Vật liệu xây dựng, số 3/2005)

Kĩ thuật ép phun Aquamould(r)

Lái an toàn với Aquamould®

Trong vài năm qua, Kỹ Thuật Ép Phun Battenfeld đã đầu tư nhiều công sức cho sự tiến bộ của Kỹ Thuật Ép Phun Nước (Water Injection Technology -WIT). Kết quả là, một quy trình tiến tiến khác cho sự sản xuất các chi tiết rỗng ruột, có hình ống đã được phát triển.

Chỉ vài tháng trước, Smoby, một khách hàng Battenfeld ở Lavans ls Saint-Claude, Pháp – Nhà sản xuất đồ chơi lớn thứ ba ở Châu Âu – đã bất ngờ đưa ra thị trường một loại xe đạp 3 bánh mới, trong cả sự phát triển này Kỹ Thuật Ép Phun Trợ Nước của Battenfeld "Aquamould® technology" đã giữ một vai trò quan trọng.

 Các giải pháp kỹ thuật liên quan được quan tâm đặc biệt ở đây là: Đây là giai đoạn đầu tiên, các ưu điểm của Kỹ Thuật Ép Phun Trợ Nước đã được sử dụng  cho một sản phẩm trong công nghiệp đồ chơi. Tay lái (handlebar) và phuộc bánh trước (front wheel fork) được sản xuất với Kỹ Thuật Ép Phun Trợ Nước Aquamould®. Mặc dù dự án náy đã được nhận thức từ đầu với một kế hoạch cực kỳ chặt chẽ, sản phẩm cũng đã sẵn sàng cho việc sản xuất hàng loạt đúng tiến độ.

 Cùng với Battenfeld, Simplast là một đối tác khác, hỗ trợ Smoby trong dự án này. Có trụ sở ở Barr, Pháp, và rất quen thuộc với các mô phỏng điền đầy cho Kỹ Thuật Ép Phun có trợ khí trong khuôn, Simplast đã được chỉ định thực hiện các mô phỏng cho các quy trình WIT liên quan.

 Aquamould® hiện đã được ứng dụng để sản xuất tay lái & phuộc bánh trước cho xe đạp 3 bánh. Cả hai chi tiết này được làm từ nhựa PP có các thành dầy, điều mà không thể làm được với các kỹ thuật ép phun truyền thống. Do giai đoạn làm nguội liên quan kéo dài, các vết chìm sẽ không thể tránh được và việc méo mó sẽ xuất hiện. Để làm những chi tiết này, việc ép phun có trợ nước được chuộng hơn bởi vài lý do. Áp lực nước cung cấp trong việc định hình các chi tiết chống lại sự hình thành các vết chìm ở giai đoạn làm nguội. Nước lạnh được bơm vào ớ giai đoạn chảy, do vậy đã làm nguội trực tiếp nguyên liệu nhựa từ bên trong trong giai đoạn phun. Hiển nhiên, nguyên liệu cũng được làm nguội thông qua hệ thống làm nguội của khuôn. Các giai đoạn làm nguội cực kỳ ngắn đã đạt được, cám ơn sự giải nhiệt trực tiếp bên trong ở giai đoạn chảy bởi nước, và sự giải nhiệt đồng thời bên ngoài bởi hệ thống làm mát của khuôn.

Máy ép phun và thiết bị Aquamould® đã hoạt động thành công dưới các điều kiện sản xuất trong vài tháng. Với Aquamould®, các chu kỳ thời gian trong việc sản xuất cả hai chi tiết này đã được giảm xấp xỉ 40%, so sánh với các quy trình khí nén bên trong.  

Battenfeld Aquamould® là một hệ thống tích hợp, bao gồm các thành phần sau:

-          Các máy nén nước.

-          Hệ thống kiểm soát điện.

-          Các mô đun kiểm soát áp suất

-          Các bộ phận phun nước

 Các máy nén series WE có sẵn ở một vài kích cỡ. Tất cả máy nén WE hoạt động với áp suất cực đại là 300 bar, và thực hiện việc phun nước ớ mức 1000ml/s.

 Hai giải pháp có sẵn khác cho việc kiểm soát điện của Aquamould®:

Tích hợp các tính năng cần thiết vào hệ thống kiểm soát của máy ép phun. Đây là đề nghị cho các máy ép phun Battenfeld được trang bị với các hệ thống kiểm soát Unilog B4. 

 Tủ kiểm soát di động Unilog B4 AC.

Tủ kiểm soát này đã được thử và kiểm tra trong nhiều quy trình Airmould®. Hoạt động và các tính năng của tủ cho Aquamould® gần như được nhận diện bởi kỹ thuật Airmould®. Tủ kiểm soát di động được trang bị với màn hình kiểm soát "touch-screen". Hoạt động đơn giản của tủ tương tự như hoạt động của hệ thống kiểm soát Unilog B4 đã được minh chứng. Nó cho phép đầu vào dạng xiên của áp lực nước. Việc kiểm soát áp lực nước với độ chính xác cao thực hiện theo suốt giai đoạn phun.

Tủ kiểm soát được nối kết với máy ép phun qua cùng giao diện như cho Airmould®.

Để bổ sung áp lực nước và kiểm soát áp suất phun, các dụng cụ kiểm soát áp suất nhỏ, rắn chắc đã được phát triển, có tác dụng chống rò rỉ và chỉ hoạt động bởi điện. Điều này cho phép việc đặt các dụng cụ kiểm soát áp suất gần kề với khuôn, giúp hạn chế sự tụt áp trong quá trình phun nước đến mức tối thiểu.

 Nước được dẫn vào qua các dụng cụ phun theo hai hướng, trực tiếp vào các lỗ hoặc qua các kênh phân phối. Trong việc phát triển các dụng cụ phun này, một số điều kiện cần đạt:

 -          Các vùng tiết diện của các kênh dẫn nước lớn

-          Kích thước nhỏ, rắn chắc giúp cho việc lắp đặt đơn giản

-          Điều khiển việc đóng, mở các kênh dẫn nước.

-          Chống rò rỉ.

-          Các seal (xi bịt, vòng đệm) trơ với nguyên liệu nhựa.

 Yêu cầu đáp ứng đồng thời về các vùng tiết diện cho các kênh dẫn nước lớn bên trong, và kích thước tổng thể nhỏ bên ngoài cho thấy sự thách thức lớn mà các kỹ sư (những người đã phát triển các chi tiết quan trọng này) phải đối mặt. Tuy nhiên, Battenfeld đã phát minh thành công các thiết bị phun nước, đáp ứng với tất cả yêu cầu này.

 Bằng hệ thống tích hợp Aquamould®, Battenfeld đưa ra kỹ thuật phun nước với các thành phần đã được kiểm chứng, mà đã chứng tỏ được hoạt động tuyệt vời trong thực tiễn, và sẽ tiếp tục việc nghiên cứu của mình trên nhiều loại nền sản xuất khác.

Một số hình ảnh minh họa:

              

    Máy ép phun Battenfeld TM 3500/1900                        Hệ thống Battenfeld Aquamould®

              

Tay lái và phuộc bánh trước của xe đạp 3 bánh

    

         An toàn cho trẻ em: một xe đạp 3 bánh được sản xuất với kỹ thuật Aquamould®

BÀN VỀ NGUYÊN TẮC ĐO MÀU BẰNG THIẾT BỊ

BÀN VỀ NGUYÊN TẮC ĐO MÀU BẰNG THIẾT BỊ

 Màu sắc là một thuộc tính quan trọng của các chi tiết nhựa trong nhiều ứng dụng. Ở phạm vi bài viết này, hãng KONICA MINOLTA xin được trình bày một số cơ sở của việc phân tích màu bằng thiết bị.

Màu sắc sản phẩm đóng vai trò quan trọng trong việc thiết kế sản phẩm. Trong môi trường cạnh tranh ngày nay, người tiêu dùng có nhiều chọn lựa hơn, nên các nhà sản xuất không thể bỏ qua sự việc là "Sức hấp dẫn về màu sắc của sản phẩm cũng đóng vai trò quyết định đến quyết định mua hàng".

Quá trình để đạt được màu sắc đồng đều như mong muốn có thể là một nhiệm vụ khó khăn ở một môi trường kinh doanh, nơi phần lớn các nhà sản xuất phụ thuộc vào nhiều nhà cung cấp (nguyên liệu, bột màu, hạt màu…). Màu sắc bên ngoài thậm chí còn được quan tâm nhiều hơn ở các sản phẩm được lắp ghép từ nhiều chi tiết khác nhau. Lấy ví dụ như nhà sản xuất máy vi tính, người mua lại các bàn phím, màn hình, máy in, các thiết bị xử lý trung tâm (CPU: Central Processing Units)…từ các nhà gia công khác, lắp ráp lại thành một bộ máy vi tính hoàn chỉnh. Thậm chí một lỗi lắp ghép rất nhỏ không tương xứng giữa các chi tiết vẫn có thể không thoát khỏi mắt người tiêu dùng.

Nhân viên kiểm soát chất lượng là người liên quan đến việc đánh giá màu sắc trong công việc hàng ngày của họ. Thông thường, công việc này thì khó khăn và mang tính chủ quan cao. Với kỹ thuật sản xuất hàng loạt như ngày nay, sự đánh giá màu sắc của một chi tiết phải được thực hiện bởi một thiết bị, nhằm giúp tránh được sự lắp ghép không tương xứng giữa các chi tiết, có thể gây nên sự phản cảm dưới con mắt quan sát của người tiêu dùng. Bên cạnh đó, giúp gia tăng giá trị thẩm mỹ cho sản phẩm.

 NHẬN THỨC VỀ MÀU SẮC

Màu sắc là vấn đề về nhận thức theo cách hiểu chủ quan. Khi mô tả với cùng một màu sắc, mỗi người khác nhau sẽ diễn đạt theo nhiều ý khác nhau, và họ sẽ định nghĩa màu sắc đó theo từ ngữ của riêng mình. Dựa theo quan điểm kỹ thuật, một màu sắc có thể được mô tả bằng ba thuộc tính sau: Màu sắc, giá trị và sắc độ.

  • Màu sắc là từ ngữ được sử dụng để phân biệt giữa các màu, ví dụ như đỏ, vàng, xanh…

  • Giá trị là độ sáng hay tối của một màu

  • Sắc độ (đôi lúc còn được gọi là độ bảo hòa) là việc đo sự khác biệt của một màu như thế nào so với màu xám

Cả ba nhân tố của màu sắc này có thể được kết hợp bằng đồ thị. Được kết hợp trong hệ thống 3 hướng, chúng sẽ xuất hiện như khối màu được trình bày ở hình 1. 

SỰ ĐÁNH GIÁ BẰNG THỊ GIÁC

Giả thiết về màu sắc dường như là phức tạp, nhưng trong thực tiễn mắt người có thể phát hiện được sự khác biệt nhanh và chính xác. Một điều không may mắn là các người quan sát khác nhau sẽ luôn luôn không đồng quan điểm về sự khác biệt, mà họ nhận thức theo quan điểm của mình. Một trong những giới hạn của mắt người là khả năng nhớ màu. Việc hiểu màu sắc có tính chủ quan, và dễ dàng bị ảnh hưởng bởi các yếu tố không thể kiểm soát. Kích thước mẫu, tuổi tác, điều kiện ánh sáng chỉ là một vài yếu tố có thể ảnh hưởng đến sự đánh giá màu sắc của một người.

Phần lớn các nhà sản xuất tin tưởng vào kỹ năng có được của các nhà thẩm định màu đã được huấn luyện, nhằm phát hiện ra sự khác biệt màu sắc ở thành phẩm. Mặc dù vậy, sự tranh cãi vẫn xảy ra giữa các bộ phận hay các nhóm người khác nhau, khi họ cố gắng mô tả chính xác màu sắc của một vật thể

KIỂM SOÁT MÀU SẮC

                           Một số loại máy đo màu của hãng Konica Minolta trên thị trường

 

                           

 Nhận thức màu sắc phụ thuộc vào các đặc tính màu của vật thể, nguồn sáng sử dụng để chiếu lên vật thể và người quan sát. Sự thỏa thuận về một nguồn sáng riêng biệt có thể loại bỏ các tranh cãi có thể phát sinh giữa nhà sản xuất & nhà cung cấp. Tuy nhiên, việc không chuẩn hóa giữa các nhà quan sát không dễ khắc phục; Sự nhận thức không thể chuẩn hóa được.

Năm 1931, Ủy Ban Quốc Tế về Độ Rọi "The Commission Internationale d'Eclairage (CIE)", đã được thành lập để phát triển sự hợp tác quốc tế, cùng sự trao đổi thông tin trong các quốc gia thành viên trên các lĩnh vực liên quan đến khoa học hay các đề tài về ánh sáng. Ủy Ban này xuất bản các tiêu chuẩn cho cả hai yếu tố: Nguồn sáng và các quy định cho người quan sát; và đưa ra một hệ thống phương pháp cho phép hoàn tất một số định nghĩa về màu sắc.

Kể từ lúc thành lập, CIE đã được chấp nhận như một tổ chức có uy tín về lĩnh vực này, và cũng được Tổ Chức Chứng Nhận Quốc Tế (ISO) thừa nhận như một phần tiêu chuẩn quốc tế. CIE đưa ra cơ sở đo màu cho phép mỗi màu sắc có thể được định nghĩa bởi bộ 3 giá trị hướng (tristimulus): X, Y và Z. Các giá trị này được thay đổi theo phương diện toán học, cung cấp việc đo dựa trên sự phản xạ hoặc độ sáng: Y; và độ kết tủa màu: x và y. Biểu đồ độ kết tủa màu CIE 1931 được thể hiện ở hình 2. Sự phản xạ hoặc độ sáng: Y thì thẳng góc với biểu đồ độ kết tủa màu "The CIE 1931 (x,y) chromaticity diagram".

Mặt hạn chế chính của biểu đồ CIE 1931 là nó không đại diện đồng nhất cho mỗi màu riêng biệt. Một đơn vị của sự khác biệt màu trong sắc thái đỏ (red) thì không giống như đơn vị của sự khác biệt màu trong sắc thái xanh lá cây (green) hay xanh (blue). Một khoảng màu đồng nhất hơn được đề nghị bởi CIE, và khoảng màu này CIE L*a*b đã trở nên phổ biến nhất trong số các người sử dụng máy so màu. Hình 3 là hệ thống L*a*b đại diện cho 3 mức tỉ lệ với L đại diện cho độ sáng, giá trị dương a đại diện cho màu đỏ (red), giá trị âm a đại diện cho màu xanh lá cây (green), giá trị dương b đại diện cho màu vàng (yellow), và giá trị âm b đại diện cho màu xanh (blue). Phần lớn người sử dụng khoảng màu này nhận thấy rằng nó đặc biệt hữu ích trong việc thiết lập các thông số dung sai cho màu sắc.

Nhiều người sử dụng khoảng màu CIE L*a*b cần đo màu sắc và sự khác biệt màu sắc để mô tả sự khác biệt màu sắc trong công việc đo màu hàng ngày. Điều này dẫn đến việc phát triển một định nghĩa dễ hơn về hàm lượng giác học CIE L*C*H*. Trong định nghĩa này, sắc độ (C*) là khoảng cách so với điểm tọa độ (0,0) trong khoảng màu CIE L*a*b. Các màu sắc rơi vào trên bất cứ vòng tròn có tâm điểm gốc sẽ có cùng giá trị sắc độ màu. Màu sắc (H) liên quan đến vectơ (vector) được định nghĩa bởi a* và b*. Tất cả màu sắc rơi vào bất cứ đường thẳng nổi lên từ tâm điểm gốc sẽ có cùng góc độ màu, và do vậy sẽ có cùng màu.

THÔNG SỐ MÀU SẮC

Sử dụng các hàm này có thể viết được các thông số màu, chỉ định dung sai, và kiểm tra các sản phẩm có đúng với các thông số đó không. Để bổ sung một chương trình kiểm soát chất lượng hoàn toàn, cả khách hàng và nhà sản xuất phải đồng ý dựa trên mẫu tham khảo (mẫu FA được sử dụng rộng rãi nhất như là tiêu chuẩn cho việc chấp nhận sản phẩm). Bên cạnh đó, nhà sản xuất cũng phải đề nghị một giới hạn dung sai. Giới hạn này không nên quá chặt chẽ đến mức có thể gia tăng chi phí sản xuất, nhưng cũng không nên quá lỏng lẻo đến mức không cung cấp được việc kiểm soát màu như yêu cầu.

Kiểm soát màu mục tiêu có thể được bổ sung với việc sử dụng các hệ thống khoảng màu CIE L*a*b* hoặc CIE L*C*H*. Phương trình về độ khác biệt màu CIE: Delta E*ab là một đặc tính chuẩn trong phần lớn các thiết bị đo màu, và cung cấp cách thức thiết lập dung sai màu. Delta E*ab được tính toán từ dữ liệu thu nhận từ các mẫu giới hạn.

Một cách khác để đạt đến việc thiết lập dung sai là tham khảo các ghi chép trong quá khứ về các tranh luận màu sắc cho mỗi màu chuẩn. Mỗi màu được xếp loại dưới sự thanh soát của con người như là có thể chấp nhận bằng mắt, không thể chấp nhận hoặc là đường ranh giới. Các mẫu sau đó có thể được đo bằng máy so màu hoặc máy quang phổ. Dữ liệu kết quả có thể được đánh dấu trên biểu đồ CIE L*a*b* dựa theo tiêu chuẩn màu. Những điểm nằm trong quỹ tích (quỹ đạo) có thể chấp nhận sẽ được ghi nhận là đạt, và những điểm nằm ngoài quỹ tích sẽ được ghi nhận là không đạt.

Công việc đo màu đang trở thành một phần không thể thiếu trong các hệ thống kiểm soát chất lượng và các tổ chức sản xuất hiện đại. Bên cạnh việc đo sự khác biệt màu, thiết bị đo màu còn được sử dụng cho nhiều ứng dụng khác. Với một chương trình phần mềm thích hợp, thiết bị đo màu có thể được sử dụng để xây dựng các hệ thống cho việc phân tích phương hướng, xây dựng công thức cho từng mẻ hàng, cũng như một loạt các công việc khác. (Bảng 1 cung cấp thêm thông tin về các ứng dụng của máy đo màu trong thực tiễn)

 Bảng 1: NHỮNG ỨNG DỤNG CỦA CÁC HỆ THỐNG THIẾT BỊ ĐO MÀU

Hoạt động

Mô tả

Chất lượng

Xếp loại mẫu trong & sau quá trình sản xuất

Giảm thiểu phế phẩm

Đo độ đồng nhất so với các tiêu chuẩn đã được chọn

Giao tiếp màu sắc

Nhận diện & truyền đạt, hoặc ghi nhận các tiêu chuẩn

Năng suất

Điều chỉnh các công thức, làm cho phù hợp màu

Phân tích phương hướng

Xác định độ bền màu theo quá trình sử dụng

Phân loại độ bóng

Phân loại các chi tiết dựa trên độ bóng cho các công việc lắp ghép giữa các chi tiết, gia tăng tính thẩm mỹ

Thư viện màu

Phân loại theo màu sắc

Nghiên cứu & phát triển

Đo các thuộc tính không thấy được dựa trên các thuộc tính thấy được (Ví dụ: Ảnh hưởng của hệ thống màu lên một việc làm không có suy tính)

 

Theo Cong nghe chat deo tp Ho Chi Minh

 
 

 

VẤN ĐỀ CAO SU PHẾ LIỆU

VẤN ĐỀ CAO SU PHẾ LIỆU

1. Tình hình vỏ xe phế liệu

          Mỗi năm trung bình mỗi quốc gia thải ra hàng triệu vỏ xe các loại, như vậy trên toàn thế giới mỗi năm nhận khoảng 1 tỷ vỏ xe các loại. Đây thực sự là thách thức lớn cho môi trường sống của con người. Hầu hết chất thải từ cao su rất khó phân hủy, phải mất khoảng vài chục năm nó mới có khả năng phân hủy vào trong đất. Có thực tế rằng đi đâu ta cũng thấy những núi rác cao su.

          Rác thải từ mọi thành phần, chất thải từ công nghiệp, nông nghiệp, sinh họat… dù có bao nhiêu bãi rác đi nữa thì đến lúc nào đó không thể chứa nổi. Song song đó là sự ô nhiễm môi trường sống, đe dọa trực tiếp đến sức khỏe của con người. Với sự quá  tải về lượng rác như hiện nay, thì các loại rác khó phân hủy cần phải tìm một hướng giải quyết mới để hạn chế mức thấp nhất thải ra môi trường.

          Hằng năm, lượng vỏ xe phế thải tăng lên đáng kể vì tiêu chuẩn cho sự đi lại của con người vẫn là các loại xe. Cuộc sống càng hiện đại thì nhu cầu cho sự di chuyển ngày càng tăng thì vỏ xe bị vứt đi ngày càng nhiều.

            Dẫn đầu về số lượng vỏ xe phế thải là :

                       Bắc Mĩ

                       Các nước Tây âu

                       Viễn đông

2. Lý do phải tái sinh vỏ xe

          Với tình hình vỏ xe phế thải như hiện nay không cho phép chúng ta cứ mặc sức thải ra môi trường và chờ đợi vài chục năm mới phân hủy. Ngành công nghệ tái sử dụng ra đời từ rất sớm.

            Vỏ xe phế liệu được tái sử dụng trước những năm 1960, khi giá dầu mỏ còn rẻ và sự nghiền tách thép còn gặp nhiều khó khăn, những lợi nhuận kinh tế ngắn hạn được tập trung vào sự tận dụng những vỏ xe phế liệu. Người ta sử dụng những vỏ xe làm nhiên liệu đốt.

         Nhưng thực tiễn đã có những hậu quả trái ngược đối với sức khỏe của con người và môi trường, gia tăng sự ô nhiễm và cạn kiệt nguồn năng lượng, giống như dầu mỏ và thép. Tái sử dụng lại vỏ xe chỉ là một phần của những cố gắng của chính phủ, nền công nghiệp và những cá nhân để làm giảm bớt những vấn đề về cao su phế thải.

           Những hậu quả này đã được dự báo trước bởi các nhà môi trường học, nhưng những nhà kinh tế cũng cố gắng để tái sử dụng lại và phục hồi nguồn năng lượng – bằng cách sử dụng vỏ xe như là nguồn nhiên liệu – như những thành phần có lợi của chương trình quản lý vỏ xe phế liệu.

         Việc sử dụng cao su vỏ xe phế liệu để làm một số sản phẩm sẽ có giá thành rẻ hơn cao su mới. Ví dụ như dùng vỏ xe phế liệu làm những sản phẩm như nhựa rải đường và lớp lót cho những bề mặt sân vườn có thể tăng tính an toàn trong khi sử dụng và giá thành rẻ hơn so với vật liệu truyền thống.

          Tái sử dụng vỏ xe phế liệu và những phương pháp khác nhằm tận dụng các nguồn cao su cũng gia tăng đáng kể trong quá khứ.

          Có nhiều cách khác nhau để tái sử dụng lại phế liệu nhưng những cách này đều nhằm mang lại lợi ích về kinh tế và môi trường sống cho con người để ngăn ngừa sự vứt bỏ những vỏ xe phế liệu.

3. Lịch sử ngành công nghiệp tái chế

Ngành công nghiệp tái sử dụng cao su phế liệu ra đời hầu như cùng lúc với ngành sản xuất cao su. Năm 1820, chỉ một năm sau khi bắt đầu làm chiếc áo mưa đầu tiên bằng vải tráng cao su, Charles Macintosh đã phải cần nhiều cao su hơn lượng cao su mà ông ta có thể nhập. Nghiên cứu của người cộng sự Thomas Hancock, đã đem đến hướng giải quyết cho vấn đề.

           Hancock đã tạo ra một chiếc máy để nghiền những miếng cao su bỏ ra trong quá trình tạo áo mưa. Những miếng nhỏ cao su này sau đó sẽ được trộn với nhau và tạo thành những khối để đưa ngược trở lại với quá trình sản xuất áo mưa.

         Handcock đã gọi chiếc máy này là một cái hàm nhai bởi vì bản chất của nó là nhai những miếng cao su bỏ đi thành những phần nhỏ hơn nhưng nó được sử dụng rộng rãi với cái tên "pickle"

           Tuy nghiên, những ngày tái sử dụng cao su đơn giản đã rất ngắn. Quá trình lưu hóa để tạo ra những sản phẩm cao su chịu được thời tiết, được áp dụng nhiều hiện nay, cũng làm khó khăn trong việc tái sử dụng lại cao su. Vì sự lưu hóa nên cao su không thể nóng chảy được và rất khó trong việc tạo ra những sản phẩm khá, bởi bản chất của sự lưu hóa chính là sự tạo mạng liên kết ngang trong các phân tử của cao su, tạo thành một khối vững chắc.

         Tái sử dụng lại cao su cũng được tiến hành hết sức mạnh mẽ vào thế kỷ 20 bởi giá cả của cao su nguyên liệu – thiên nhiên và tổng hợp – trở nên đắt đỏ. Năm 1910 giá của 28.35g (1 ounce) cao su tương đương với giá của 28.35 gam bạc. Đó là một lý do cho dự án phát triển tới 50% sự tái sử dụng lại cao su phế liệu thế kỷ 20.

           Nhưng vào năm 1960 thì tốc độ tái sử dụng giảm xuống còn 20%, lý do là giá dầu mỏ rẻ và ngành công nghiệp sản xuất cao su tổng hợp phát triển mạnh mẻ làm giá thành của cao su giảm xuống. Vào cuối những năm 1960, sự phát triển của những vỏ xe radial đã làm cho ngành công nghiệp tái sử dụng gặp nhiều khó khăn, Năm 1995 chỉ có 2% cao su tái sinh được sử dụng cho toàn ngành công nghiệp cao su. Những lợi nhuận mang lại cho nền kinh tế trong thời gian ngắn nhưng đồng thời nó mang lại những rủi ro về lâu dài đối với cuộc sống của con người. Một bằng chứng là ngày qua ngày có càng nhiều những vỏ xe phế thải bị vứt đầy trên mặt đất và những đống rác vỏ xe bất hợp pháp mọc lên nhiều nơi.

         Những cuộn khói màu đen mang đầy chất độc hại bốc lên bầu trời khi đốt những vỏ xe phế liệu hay đầy rẩy những mầm bệnh quanh những đống rác này. Như vậy tình trạng ô nhiễm sống và nguy cơ bệnh tật cho con người là không thể tránh khỏi.

          Tháng 8 năm 1999 những nhà chức trách OHIO đã nhận thấy được rằng đã đến lúc họ phải hành động, từ thủ đô Columbia người ta có thể nhìn thấy những cột khí đen cao ngút trời bốc ra từ những vỏ xe đang bị đốt.

        Ngày nay, nhiều quốc gia đã ý thức được những tác hại có thể gây ra từ những vỏ xe bị vứt một cách bừa bãi. Họ đã bắt đầu quan tâm đến việc tái sử dụng lại những vỏ xe một phần để giải quyết tình trạng quá tải như hiện nay và một phần cũng do những lợi nhuận mà nó có thể mang lại cho nhiều nhà đầu tư. Và ngày càng nhiều sản phẩm đã được làm ra từ nguồn nguyên liệu là nguồn cao su tái sử dung. Ngành công nghiệp này đang từng bước thu hút sự đầu tư .

4. Những vấn đề phát sinh đối với vỏ xe phế liệu.

Bảng 1.1: Sự phân bố của các vỏ xe hiện nay.

50% : Vứt bỏ trên mặt đất

40% : Đốt

10% : Tái sử dụng

            Ta thấy rằng với lượng vỏ xe phế thải như hiện nay nhưng tỷ lệ tái sử dụng lại chỉ chiếm 10%, con số này thực sự rất nhỏ so với lượng vỏ xe phải đem đi đốt hoặc vứt bỏ trên những bãi rác.

          Vì vậy việc tái sử dụng là vấn đề hiển nhiên và thực sự cần thiết đối với mỗi quốc gia, chỉ có tái sử dụng lại mới có thể giải quyết được vấn đề vỏ xe phế thải như hiện nay.

a. Vấn đề bệnh tật:

Những bệnh truyền nhiễm gây ra từ loài muỗi có thể gây chết người không còn là  mới đối với những dân ở ban Ohio trong năm 2002. Cũng như hầu hết với những người liên quan từ những tài liệu ghi lại.

          Bây giờ nó chỉ giới hạn chỉ ở những vùng nhiệt đới và những vùng phụ cận nhiệt đới của thế giới, những bệnh truyền nhiễm từ loài muỗi có thể kể đến là bệnh sốt vàng hay bệnh sốt rét, Những căn bệnh này đã cướp đi mạng sống của nhiều người dân ở các nước thuộc địa trước đây khi những vỏ xe phế thải đã bị vứt bỏ ở các vùng đất trống trên các nước này.

            Ta biết rằng loài muỗi đẻ trứng trong nước đong, cũng như nó có thể sinh sôi từ trong những đống vỏ xe bị vứt bỏ và cả những vũng nước đong lại  bên trong vỏ xe sau mỗi đợt trời mưa. Mỗi vỏ xe có thể là nguồn tuyệt vời để sinh ra hàng nghìn con muổi mang mầm bệnh trong mùa hè.

         Virut West Nile là loại nguy hiểm có thể gây ra chết người được truyền từ các loài muỗi mang mầm bệnh này. Người ta đã thống kê năm 1999 lần đầu tiên phát hiện loại virut này thì đến năm 2002 nó đã lang rộng ra 44 bang của Mỹ và đã có hơn 4000 trường hợp nhiễm bệnh, trong đó có 263 người đã chết.

          Vấn đề ở đây là chúng ta không thể để tồn tại những đống vỏ xe như vậy vì nó là nguồn lây lan bệnh tật có thể cướp đi mạng sống của nhiều người.

 b. Vấn đề ô nhiễm môi trường:

        Một vấn đề không kém bệnh tật là trình trạng ô nhiễm môi trường do những vỏ xe này mang lại. Thậm chí trước khi nền công nghiệp tái sử dụng vỏ xe được định hình vào những năm 1960 và đầu những năm 1970 thì những vỏ xe phế thải được tập trung thành đóng lớn trên những bãi đất trống, quanh các công trình, quanh các đường lộ… để đốt. Lửa cháy rất dữ dội khi đốt những đóng vỏ xe lớn, thật khó nếu muốn dập tắt nó. Có những đóng vỏ xe đến hàng tháng mới cháy hết, khi cháy chúng bốc lên những cột khói đen mang đầy khí độc tỏa lên bầu trời và những dòng chất lỏng làm ô nhiểm nghiêm trọng nguồn nước.

          Việc đốt vỏ xe không chỉ làm ô nhiễm nguồn nước, không khí, đất mà nó còn làm cho trái đất ngày càng nóng lên.

          Nhận thấy những điều này, ở nhiều nước đã ngăn cấm việc đốt và vứt vỏ xe bừa bãi.

         Ngoài ra, người ta còn nghiền những vỏ xe ra và chôn chúng vào trong lòng đất. Tuy nhiên điều này nhanh chóng bị nhiều nước lên tiếng phản đối khi họ nhận ra những vỏ xe bị chôn dưới lòng đất sẽ tác động đến nguồn nước ngầm và làm nhiễm bẩn nguồn nước.

         Cuối cùng người ta còn mang những vỏ xe đến vứt ở các nước thuộc địa. Chính điều này đã gây nên những căn bệnh cướp đi những mạng sống của các nước thuộc đia.
Theo trung tâm chất dẻo tp Ho Chi Minh

CÁC HỆ THỐNG ĐO LƯỜNG TIÊN PHONG TRONG CÔNG NGHỆ POLIME

CÁC HỆ THỐNG ĐO LƯỜNG TIÊN PHONG TRONG CÔNG NGHỆ POLIME

 

Nghiên cứu Polime là một trong các lĩnh vực được phát triển phổ biến nhất trong công nghệ vật liệu. Nhựa là một vật liệu tương đối "trẻ", và thiết bị đo lường – đã được sử dụng ở đầu giai đoạn phát triển của nó – giúp đánh giá các giá trị đặc tính cơ học của nhựa. Các đặc tính này có ảnh hưởng quan trọng đến quy trình sản xuất của polime.

 Một trong những phương hướng phát triển các thiết bị đo lường cho thị trường sản xuất, là tái tạo lại các hệ thống sản xuất với quy mô nhỏ, đòi hỏi chỉ vài kilogram nguyên liệu cho một hệ thống kiểm tra nguyên liệu hoặc thậm chí một vài gram trong Phòng thí nghiệm "Nghiên cứu & Phát triển", thay vì việc sử dụng đến hàng tấn nguyên liệu như trong sản xuất.

 Tập đoàn Thermo Electron (Mỹ) với chi nhánh HAAKE ở Đức của mình đã là một trong những nhà sản xuất đầu tiên cung cấp các máy đo lưu biến mô men xoắn thương mại cho các mục đích liên quan đến quy trình sản xuất, như là các công đoạn phối trộn & đùn.

 Thiết bị đã trải nghiệm qua cùng giai đoạn phát triển nhanh như các thiết bị khác, và ngày nay chúng đại diện cho các thiết bị đo lường kỹ thuật số hiện đại với các hệ thống kiểm soát vi tính tinh vi.

 Các chiều hướng cho kỹ thuật đo lường polime như thế nào?

 Khách hàng thổ lộ cùng các nhân viên của hãng rằng công việc mà họ được yêu cầu thực hiện nhằm đáp ứng nhu cầu từ các nhà máy hay phòng thí nghiệm hiện nay là đảm bảo chất lượng, thông tin kiểm soát cần tập trung vào công đoạn có ý nghĩa quyết định cao, trong khi vẫn giữ được chi phí sản xuất thấp. Vì vậy, rất hợp lý khi họ tập trung vào các mục tiêu:

o        Gia tăng số thông tin đóng góp cải tiến sản xuất có chất lượng cao.

o        Cung cấp thông tin đáng tin cậy theo một cách đầy ý nghĩa, súc tích.

o        Cung cấp dữ liệu cho việc tối ưu hóa quy trình.

o        Nghiên cứu phương hướng giúp thu hồi vốn đầu tư nhanh hơn.

Cùng với các điểm chính yếu trên, các nhân tố 'phụ' như là sự thỏa mãn công việc và cảm giác được ở trong môi trường làm việc tốt cũng đóng góp vào thành công trong việc đáp ứng các mục tiêu được yêu cầu thực hiện. Các thiết bị đo được làm từ các vật liệu chất lượng cao, với thiết kế đẹp sẽ giúp cho thiết bị và phạm vi các tính năng rộng lớn của nó được sử dụng nhanh & hiệu quả. 

Hãng Thermo Electron đã lưu ý đến điều này khi phát triển máy đo lưu biến mô men xoắn mới HAAKE PolyLab OS (Open System), đưa vào sản phẩm của hãng các tiện ích cho người sử dụng, nhằm tạo cho họ sự hài lòng khi sử dụng thiết bị.

 

                            

Hình 1: Hệ PolyLab OS dùng cho ứng dụng nghiên cứu về đùn (extruder)

 

 

Hình 2: Hệ PolyLab OS dùng cho ứng dụng nghiên cứu về trộn (mixer)

 

 

                                                                               

Thu hồi vốn đầu tư nhanh là yếu tố then chốt khi quyết định mua thiết bị mới. Hệ HAAKE PolyLab OS đã được phát triển để cung cấp cho người sử dụng thiết bị đo đạc với các lợi ích tức thời trong lĩnh vực: Nghiên cứu & Phát triển, Các hệ sản xuất thử và Sản xuất thực.

 Ví dụ: Hệ HAAKE PolyLab OS mới này có thể được sử dụng theo dõi các việc đo phối trộn, và thực hiện các thí nghiệm đùn trên vật liệu polime, hỗn hợp ceramic và các mẫu cao su, nhưng với chi phí & công sức ít hơn so với trong quá khứ.

 Sau khi nạp liệu cho các thiết bị trộn hoặc đùn và ra lệnh thực hiện chuỗi kiểm tra, người sử dụng có thể rời khỏi vị trí máy đi làm các công việc khác. Hiện trạng của một thí nghiệm có thể được xem xét ở bất kỳ thời điểm nào bằng việc sử dụng hộp danh sách web (web browser) hoặc trình hỗ trợ số cá nhân (PDA: Personal Digital Assistant), bất kể người sử dụng đang ở đâu. Kết quả là nhiều công việc thí nghiệm có thể được thực hiện trong cùng khoảng thời gian. Cả chuỗi các thí nghiệm được định rõ và thực hiện từng bước một theo chương trình cài đặt (công việc đo). Cảnh báo lỗi, chuông báo hoặc tin nhắn nhằm thu hút sự chú ý của nhân viên phòng thí nghiệm được thể hiện trên tất cả các màn hình (PC, PDA or browser).

 Một khối lượng lớn dữ liệu đo đạc có thể được chuẩn bị, xử lý và lưu trữ hợp lý như thế nào?

 Đối với các công ty dược, dữ liệu đo vết hoàn chỉnh là yêu cầu chuẩn cho việc đầu tư mới. Các quy định tương tự cũng đang được lên kế hoạch cho các ngành công nghiệp khác, như là phát triển cho Thực phẩm và Mỹ phẩm. Các nguyên tắc, điều lệ trong công nghiệp dược phẩm với chủ định tránh việc đưa ra dữ liệu không được kiểm soát, thay cho phép kiểm tra với các kết quả xác thực.

 Hệ HAAKE PolyLab OS cho phép kiểm soát dữ liệu máy song song với việc thu thập dữ liệu bằng việc sử dụng phần mềm ứng dụng, cho phép các kết quả – ở định dạng mẫu – tương thích với dữ liệu đo ở bất kỳ khoảng thời gian định trước nào.

 Phần mềm ứng dụng quản lý hệ thống dữ liệu đặc biệt đảm bảo các công việc đánh giá khác nhau (tiêu chuẩn hoặc riêng biệt), cho việc xử lý đồ họa dữ liệu đo nhanh, sử dụng các giá trị đặc tính của mẫu đo. Các giá trị này chỉ cần được định rõ một lần, sau đó có thể gọi lại bằng cách ấn 1 phím trong chuỗi thứ tự kiểm tra. Mục tiêu là việc đo tự động thông qua phần mềm, dữ liệu dễ hiểu như là một bản sao dự phòng an toàn & việc đánh giá theo các phương pháp đã được minh chứng. Các kết quả kiểm tra nhanh với việc nhấn 1 phím trong định dạng dễ hiểu.

Các yêu cầu tương tự có ứng dụng trong nghiên cứu?

 Trao đổi thông tin chuyên sâu với khách hàng đã chỉ ra rằng việc mất dữ liệu thì không thể chấp nhận đối với bất cứ nhà khoa học nào, cũng như việc tạo ra các chi phí không cần thiết cho công ty cần được làm giảm thiểu. Mặc dù quá trình định rõ các giá trị là một việc đáng chú ý, sự bổ sung cũng là một yếu tố quan trọng nữa trong công việc.

 Tuy nhiên, đối với những người mong muốn thực hiện việc nghiên cứu mang tính đổi mới, các điều khoản trên vẫn không đủ. Trong công tác nghiên cứu, các thiết bị đo được sử dụng riêng biệt cho các dự án cụ thể và sau một tuần, chúng sẽ được cài đặt lại và sử dụng cho các mục đích khác. Do vậy, các thiết bị đo đơn giản, với tính năng chỉ đáp ứng được một vài ứng dụng riêng biệt, có thể không sử dụng được trong một môi trường năng động.

 Hệ HAAKE PolyLab OS được phân loại bởi một mức độ điều chỉnh cao và tuân theo nguyên lý "cắm & đo" – có thể phỏng theo các đòi hỏi của một ứng dụng đặc biệt. Điều này được thực hiện với sự trợ giúp của giao diện đã được chuẩn hóa "CAN Open Bus" cho việc giao tiếp nội bộ và giao diện USB cho việc kết nối với một máy vi tính bên ngoài.

 Nhưng các đòi hỏi nghiên cứu chuyên sâu thậm chí còn nhiều hơn. Chẳng hạn, một trong những đối tác của hãng đã chỉ ra rằng họ phải tích hợp bổ sung các đầu dò và phát triển nhóm tích hợp mới này vào quy trình cài đặt kiểm tra, để có thể chuyển đổi sự phát triển dự án của mình từ quy mô phòng thí nghiệm sang hệ thống sản xuất thử.

 Giao diện đã được chuẩn hóa "CAN Open Bus" trong khái niệm thiết bị HAAKE PolyLab OS mới cho phép người sử dụng tích hợp các đầu dò theo sự lựa chọn của mình, ví dụ: cho việc xác định suất dẫn của polime tan chảy trong quá trình pha trộn, hoặc kiểm soát nồng độ phụ gia theo nghĩa quang phổ học.

Hình 3: Đầu dò quang phổ kế ở miệng máy đùn

(Được đăng tải với sự đồng ý của Viện Kỹ Thuật Hóa Học Fraunhofer ở Pfinztal, Berghausen)

 Nếu các đầu dò bổ sung không có giao diện "CAN Open Bus" được gắn vào hệ HAAKE PolyLab OS, các giao diện phải được hiệu chuẩn riêng rẽ. Điều này lại thành công với đầu dò máy đo lưu biến mới tại Viện Kiểm Tra Vật Liệu Động (IdM) ở Đại Học Ulm, một đầu dò có thể hoạt động độc lập với hệ thống HAAKE PolyLab OS. Sử dụng đầu dò này tại IdM, tạo ra dòng siết trục động với các yếu tố tạo áp, bốn mức tần số đã được ghi nhận trong vài phút, và các kết quả được đánh giá riêng biệt trong mối tương quan với G'G" = f (tần số), phổ hồi phục và sự phân bố kích thước phân tử.

Một viễn cảnh tương tự áp dụng cho việc phát triển đầu dò tương lai với sự quan tâm đến tương lai đảm bảo cho hệ máy của hãng.

 

Đồ thị 1: Đường tổng thể (Master curve) của polystyrene ở 190°C

(với sự đồng ý của BASF, Ludwigshafen về việc sử dụng biểu đồ này)

 Thời gian dừng của máy móc đã được giảm đến mức tối thiểu như thế nào?

 Các dự án nghiên cứu với mục tiêu tìm các phương pháp cải tiến, cho đến các giải pháp và kế hoạch về những chuỗi thí nghiệm mới. Thiết bị được sử dụng cho các ứng dụng nghiên cứu chỉ đơn giản mang ý nghĩa một phần. Thời gian dừng của thiết bị không chỉ gây ra chi phí sửa chữa tốn kém, mà còn làm chậm trễ thời gian đưa sản phẩm ra thị trường. Điều này có thể làm cho công ty mất đi ưu thế cạnh tranh của mình trên thị trường, một vấn đề rất nghiêm trọng.

 Nếu thời gian dừng của máy móc xảy ra, nhu cầu của khách hàng sẽ nảy sinh với nhà cung cấp: Công việc chuẩn đoán lỗi phải được tiến hành từ xa trước (qua email, điện thoại…), nhằm giúp khách hàng quyết định có nên gọi một kỹ sư bảo trì đến nhà máy của mình hay lựa chọn giải pháp bảo trì từ xa (dưới sự hướng dẫn của kỹ sư bảo trì qua điện thoại, email…).

 Việc bảo trì từ xa có thể được thực hiện bằng việc cung cấp cho người sử dụng thông tin chi tiết về sự cố của thiết bị đo. Hệ HAAKE PolyLab OS với tính năng lưu trữ lại tất cả thông tin lỗi cùng với thời gian xảy ra, cho phép gợi lại các sự cố trong quá khứ. Điều này có thể không giúp khắc phục được sự cố tức thời từ xa, nhưng các chuyên gia của hãng có thể thu thập số liệu về thông tin lỗi thông qua các đường dữ liệu bảo mật, và thực hiện (hoặc hướng dẫn) việc sửa chữa cho khách hàng sau đó nếu thấy phù hợp. Hoặc các phụ kiện đã được hiệu chuẩn sẽ được gởi cho khách hàng, khách hàng (hoặc nhân viên bộ phận bảo trì của nhà máy) có thể tự mình thay thế các phụ kiện này, theo sự chỉ dẫn của các chuyên gia hãng, dựa trên nguyên tắc hoạt động "cắm & đo" của thiết bị. Điều này giảm thiểu rủi ro thời gian dừng thực của máy.

 Các đặc trưng chính của máy đo lưu biến mô men xoắn HAAKE PolyLab OS mới có thể được tóm lược như sau:

 Ÿ        Hệ thống mở với giao diện "CAN Open Bus", đảm bảo việc sử dụng trong tương lai và độ an toàn cho việc đầu tư.

Ÿ        Khái niệm thiết bị mở được ghi nhận là cần thiết cho tính cơ động của dự án.

Ÿ        Kết nối các bộ phận nhanh và dễ dàng thông qua giao diện CAN và USB

Ÿ        Tiết kiệm thời gian, chi phí sử dụng nguồn nguyên liệu, phần mềm dễ hiểu.

Ÿ        Kết quả kiểm tra đáng tin cậy, có thể dùng để thẩm tra. Giúp ổn định chất lượng đầu ra trong sản xuất.

Ÿ        Chuẩn đoán sự cố máy từ xa, và dịch vụ hỗ trợ khẩn cấp nhanh, linh hoạt.

 Các đặc trưng chính này là kết quả của việc trao đổi thông tin chuyên sâu với khách hàng. Xin chân thành cám ơn các góp ý, phê bình mang tính xây dựng, cùng sự hỗ trợ tận tâm của quý khách hàng đối với hãng. Nhờ quá trình làm việc đồng hành cùng khách hàng, hãng có thể cung cấp các giải pháp tiên phong trong công nghiệp polime, cũng như các giải pháp đáp ứng yêu cầu của từng khu vực, qua đó đóng góp 1 phần công sức của mình cho thành công của khách hàng trên thương trường.

(Tác giả: Wolfgang Marquardt, VP Marketing, Thermo Electron (Karlsruhe) GmbH

Phụ gia ngành nhựa

Sản phẩm -> Phụ gia ngành nhựa

Hợp chất CALCIUM CARBONATE

- Công thức
- Tỷ lệ pha trộn

Hợp chất tốt nhất của CALCIUM CARBONATE

Thành phần

Chất lượng sản phẩm

 

 CACO3

 APP, LDPE, WAX (Phụ gia khác)

AHD -25

AHD - 20

AHD - 15

75%

80%

85%

25%

20%

15%

Tỷ lệ % pha trộn

Mã hàng

 

AHD -25

AHD - 20

AHD - 15

Màng phun

PP

0

1-25

1-20

HDPE

1-30

1-20

1-15

Màng thổi

PP

0

1-25

1-20

HDPE

1-35

1-20

1-15

LDPE

1-30

1-15

1-10

Những mẫu tương tự khác

Hạt nhựa nguyên sinh

Chúng tôi có rất nhiều hạt nhựa nguyên sinh, đảm bảo chất lượng, có thể cung cấp với số lượng lớn cho thị trường

- Nhận cung cấp theo đơn đặt hàng cho các thị trường trong nước và quốc tế
- Hạt nhựa đảm bảo chất lượng, không có tạp chất

Những mẫu tương tự khác

Hạt nhựa tái chế

- Hạt có chất lượng tốt, có nhiều loại khác nhau, tái chế theo dây truyền của Đài loan, đạt tiêu chuẩn Quốc tế
- Nhận cung cấp với số lượng lớn và lâu dài.

- Hạt đã qua xử lý đảm bảo chất lượng, vệ sinh môi trường.

Những mẫu tương tự khác

Hạt nhựa màu

- Có nhiều màu sắc khác nhau: xanh, đỏ, tím, vàng,… đây là một phần rất quan trọng trong việc pha chế thành nhiều loại sản phẩm có màu sắc theo đơn đặt hàng.
- Hạt có chất lượng tốt, đồng đều, không pha tạp

- Chúng tôi có thể cung cấp với số lượng lớn, tới tận nơi theo yêu cầu của khách hàng
- Đóng gói theo yêu cầu của khách hàng

Những mẫu tương tự khác

Ứng dụng mới của bột Talc trong ngành công nghiệp ô tô

(26/03/2007 )

 

Mỗi năm có khoảng 200 nghìn tấn bột talc kỹ thuật được trộn với polypropylen (PP). Loại bột talc này họat động nhưng những chất gia cường, tạo độ cứng, chống biến dạng ở nhiệt độ cao và tăng độ ổn định về kích thước sản phẩm PP.

Xu hướng hiện nay trong ngành công nghiệp ô tô là chế tạo các bộ phận mỏng, nhẹ và kích thước chính xác, điều này đòi hỏi nhựa có tính lưu biến cao hơn. Mặt khác, các nhựa có độ nóng chảy cao lại hay bị giòn.

Vừa qua, Công ty Rio Tinto Minerals đã phát triển một loại bột talc (HAR) siêu mịn, cho phép định vị tốt các hạt trong quá trình đúc bằng áp lực, do có độ phân tán tốt hơn trong nhựa nên duy trì độ cứng cho các phụ tùng đúc.

Bột talc HAR làm tăng hệ số uốn cong lên 20% tăng nhiệt độ biến dạng của hợp chất PP với hệ số giãn nở nhiệt thấp hơn 20% và tỉ lệ co ngót thấp trong khi không làm giảm độ dẻo của các bộ phận đúc. Loại PP chứa bột talc HAR được dùng bên ngoài các bộ phận của ô tô (bộ giảm chấn, bộ phận cân bằng và tấm chắn bùn) và các bộ phận cần chống va đập cao.

Trong cao su, bột talc được dùng làm chất phụ gia cho quá trình chế biến và làm chất độn gia cường.

Bột talc cũng giúp các nhà sản xuất lốp xe giảm độ dày và trọng lượng của lốp. Việc này không chỉ làm tăng sức cản lăn mà nó còn khiến cho lốp xe được sản xuất rẻ hơn nhiều. Cao su bổ sung bột talc HAR cũng có thể dẫn đến tiết kiệm giá thành trong khi độ thấm không khí không thay đổi so với dùng nguyên cao su.

Các xe ô tô hiện nay chứa tới 1.000 các thành phần cao su và chất dẻo và một xe chứa trung bình 8 kg bột talc.

Sử dụng bột talc không thấm nước trong lốp xe giúp các nhà sản xuất lốp xe tạo ra những lốp nhẹ và mỏng hơn với sức cản lăn thấp, và tiêu thụ nhiên liệu ít hơn. Bột talc cũng tiết kiệm năng lượng do việc giảm độ nhớt của hợp chất cao su làm cho các bộ phận đúc và ép dễ dàng hơn.

Dự kiến sử dụng PP trong lĩnh vực ô tô ở Tây Âu sẽ vượt 1 triệu tấn vào năm 2007, và polume sẽ tiếp tục thay thế các nguyên liệu khác thông qua các sản phẩm được sản xuất rộng rãi.

 

 

 

 

Công ty Đồng Thuận trân trọng gửi tới quý khách hàng lời chức sức khỏe và thành công.

Công ty chúng tôi chuyên cung cấp các loại PHỤ GIA – NHỰA ĐẶC CHỦNG, ứng dụng trong bao bì nhựa. nay chúng tôi gửi tới quý khách một số sản phẩm, hy vọng sản phẩm của chúng tôi đáp ứng được nhu cầu của quý, góp một phần nhỏ trong sản phẩm cuối cùng và sự thành công của quý khách.

Màng ghép

(thủy sản …)

PPA-606 : chất trợ gia công (1%)

CGE-106 : chất tăng trong – bóng (1%)

ASA-126 : chất khử tĩnh điện (0.5-1%)

SAB-207 : chất trượt & chống đóng khối (0.5-2%)

Màng ghép

(mì gói, …)

CAF-806 : chất độn và trợ màu trắng (10-15%)

WPF-506 : bã màu trắng (10-15%)

DT-751 : chất tẩy rửa trục in, trục ghép

PPA-606 : chất trợ gia công (1-2%)

Túi xốp

Nhựa định hình

Chất tăng dai (3-5%)

Chất hút ẩm (1-2%)

Chất tăng trong PP, PE (1%-2%)

Hạt màu (1-4%)

Hạt TaiCal (5-25%)

….

Bao bì PE

(2 lớp)

Chất dính trong màng quấn pallet, thực phẩm (2-5%)

Tăng trong (1-2%)

Tăng dai (2-5%)

Màng nông nghiệp (màu xám, đen, UV)

 

 

CHẤT KẾT DÍNH CHO MÀNG PE

JINEX 6130 is a polyisobutence polymer, JINEX 6130 is a stable non-drying liquid and does not form a residue when volatilized or thermally decomposed at high temperatures, JINEX 6130 is resistant to oxidation, impermeable to water vapour and is hydrophobic. JINEX 6130 is also used in lubricant, adhesive, rubber, electrical cable insulation, etc
Typical Imspections
Properties_______________Test Method(a)_______Typical (b)
Density at 20
, kg/m3______ASTM D4052________895
Color, (Pt-Co)_____________ASTM D1209_______20
Flash Point (PM ), _________ASTM D93D________173
Viscosity at 100 ,cSt________ASTM D445_________630
Molecular weight____________ITM 32-003,00______1300
Water content, ppm__________AM-S 90-005_______42
Appearance________________AM-S 77-074________Clear

(a) Methods used by JINEX manufacturing plant
(b) Not a specification

Handling Precautions / Toxicity
When handling this product a MAXIMUM temperature of 110
should be observed for storage, unloading and blending, However, it is strongly recommended that for long term storage the temperature should not exceed 70
Each drum contains 165 kg

Mã sản phẩm: WPF-506
Tên sản phẩm: Bã Màu Trắng

Bã màu trắng WPF506 được ứng dụng trong công nghệ sản xuất màng PolyEthylene. Đặc biệt là trong công nghệ đùn phủ (Extrusion Coating).

Tính chất vật lý:

Nhựa nền __________________Polyethylene.
Hàm lượng TiO2______________70 %.
Khối lượng riêng______________ 2.03g/cm3.
Chỉ số chảy (2.16kg/190oC)_____20
Khả năng tương hợp: LDPE, HDPE, Polypropylene, Ethylene copolymer.

Hàm lượng sử dụng:
Bã màu trắng WPF-506 được sử dụng trong công nghệ đùn phủ với hàm lượng từ 10 – 15% tuỳ thuộc vào độ dày và yêu cầu về độ trắng đục của khách hàng.

Bao bì
Bã màu trắng WPF-506 được cung cấp ở dạng hạt và được đóng gói trong bao PP dệt ghép giấy. Hạt màu WPF-506 nên được lưu giữ ở nơi khô ráo.

 

PeakCal

Thông số kỹ thuật

Thông số vật lý:
- Độ ẩm: 0,4%
- Độ trắng: >8,6%
- Nhiệt độ làm việc: 140 oC -> 260 oC
- Kích thước hạt: CaCO3 3- 7 um
Thành Phần
_______________AD900__________AD500
CaCO3__________75%___________80%
PP (PE)__________10%___________8%
Axit Stearic_______1%____________1%
Tp bôi trơn
kết dính.._________14%___________11%

Ứng dụng để làm giám giá thành sản phẩm.
Loai nhựa tốt nhất HDPE, PP (túi xốp, bao bì màu trắng sữa, dệt bao PP...)
Tùy theo từng loại sản phẩm, độ mỏng dày và tay nghề sẽ được pha với tỷ lệ thích hợp
Tỷ lệ pha: từ 5% đến 28%.

Chúng tôi còn cung cấp các loại hóa chất phục vụ trong ngành nhựa như:

  • OB-1
  • OB
  • TITAN DIOXIT
  • DUNG MÔI
  • CHẤT HÚT ẨM
  • CHẤT TẨY MÀU TRONG TRỤC VÍT, ĐẦU KHUÔN
  • HẠT MÀU, BÃ MÀU TRẮNG ...
  • CHẤT KẾT DÍNH TRONG MÀNG QUẤN PALLET
  • CHẤT TĂNG DAI

BẢNG TIÊU CUẨN KỸ THUẬT

CHẤT ĐỘN & TRỢ MÀU TRẮNG

  • Chất độn trợ màu trắng CAF: color and filter - là một thế hệ chất độn mới, được sản xuất bằng công nghệ trộn Nano, nhằm đạt được độ phân tán, tối ưu giữa các thành phần trong chất độn vào sản phẩm.
  • Chất độn trợ màu trắng CAF806 là hỗn hợp giữa nhựa nền, thành phầm độn và tác nhân trợ màu trắng. Bên cạnh việc làm giảm giá thành, sản phẩm CAF806 còn hỗ trợ cho sản phẩm với các tính năng ưu việt sau:

1. Hỗ trợ màu cho sản phẩm, do đó có thể giảm hàm lượng màu chính mà không ảnh hưởng tới màu sắc của sản phẩm

2. Tăng cường khả năng chống thấm nước, chống thấm khí

3. Tăng cường độ cứng

4. Giảm thiểu tình trạng co rút.

Tính chất vật lý:

Nhựa nền:______________________________PP

Chỉ số chảy (190oC, 2.16kg, g/10 phút)_______20

Khối lượng riêng (g/cm3)__________________1.860

hàm lượng TiO2 (%)_____________________30

Hàm lượng độn tăng cường (40)____________40

Hàm lượng ẩm (ppm)_____________________<1500

Hàm lượng các phụ gia khác (%)____________5

Phương Pháp và Hàm lượng sử dụng

  • Chất độn trợ màu được ứng dụng trong công nghệ ép phun, đùn với hàm lượng 5-10% hoặc cao hơn tùy thuộc vào tính chất màu của sản phẩm và kỹ thuật. Đặc biệt, chất độn trợ màu trắng có tính chất tổng hợp tốt với các loại nhựa polylefin.
  • Chất độn trợ màu trắng được đ1ong gói trong bao bì PP dệt ghép giấy với trọng lượng: 25kg.

Mã sản phẩm : CIA - 307
Tên sản phẩm : Phụ Gia Tăng Trong Cho PP

TÍNH CHẤT VẬT LÝ.


Nhựa nền...................................................................PP
Chỉ số chảy (190oC, 2.16kg; g/10phút).......................5
Khối lượng riêng (g/cm3)...........................................0.93
Hàm lượng họat chất (ppm)........................................1000
Hàm lượng ẩm (ppm).................................................<1500>

Hàm lượng các phụ gia khác (%)...............................5

PHƯƠNG PHÁP VÀ HÀM LƯỢNG SỬ DỤNG.

Phụ gia CIA - 307 được áp dụng tăng độ trong cho homopolymer PP và randome polymer PP với hàm lượng sử dụng từ 1 – 4% tùy thuộc vào độ dày vào công nghệ và chủng loại nhựa.
- Đối với màng film :
CIA - 307 :......................................... 0.5 – 1.5%.
- Đối với công nghệ thổi chai và ép phun:
CIA – 307:......................................... 2 – 3%.

CÔNG DỤNG:

Các tác nhân (1,3:2,4) diparamethyldibenzylidene sorbitol trong phụ gia tăng trong CIA - 307 giúp tạo các tinh thể cầu có kích thước nhỏ hơn 1Fm trong quá trình định hình nhựa PP homo và randome. Các tinh thể cầu nhỏ này giúp tăng độ trong và độ cứng của nhựa PP đồng thời cũng rút ngắn thời gian định hình của nhựa PP, tăng năng suất trong công nghệ sản xuất các sản phẩm làm từ PP.

BAO BÌ

Phụ gia CIA - 307 được đóng gói trong bao PP ghép giấy với trọng lượng: 25kg.

 

CGE 106

TĂNG ĐỘ TRONG & BÓNG

Trong quá trình gia công, sản xuất màng PE, để đạt được độ trong và bóng mong muốn thì cần phải sử dụng nhựa LLDPE (C6-m hay C8 -m) điều này đi cùng với giá thành của sản phẩm tăng theo. Phụ gia tăng trong và bóng CGE106 là một giải pháp tốt cho sản phẩm đòi hỏi có độ trong và bóng cao mà không làm tăng giá thành của sản phẩm.

Tính chất vật lý:
· Nhựa nền: .....................................................PE
· Chỉ số chảy (190oC, 2.16kg, g/10phút): ......4
· Khối lượng riêng (g/cm3)........................... .0.925
· Hàm lượng ẩm (ppm) ..................................<1500>

 

· Hàm lượng các phụ gia khác (%) .................5

 

· Nhiệt độ phân hủy (oC) ................................>280

Hàm lượng sử dụng
· Thông thường CGE106 được sử dụng từ 1 - 2%
· Phụ gia tăng trong và bóng CGE106 không có ảnh hưởng xấu đến khả năng hàn, dán
hoặc tính chất xử lý Corona cũng như khả năng bám dính của mực in hay keo ghép.

BAO BÌ
· Phụ gia CGE106 được đóng gói trong bao bì PP dệt với khối lượng tịnh : 25kg

 

ASA 126


PHỤ GIA KHỬ TĨNH ĐIỆN ASA 126.


GIỚI THIỆU

Phụ gia chống tĩnh điện (Anti Static Agent) ASA 126 (hoặc ASC 126-1) là hỗn hợp nhựa có khả năng lọai bỏ tĩnh điện sinh ra trên nhựa LDPE, LLDPE, HDPE trong quá trình gia công và ở sản phẩm cuối cùng.
Bên cạnh đó ASA 126 cũng góp phần tăng tính trượt, giảm hệ số ma sát của sản phẩm cuối cùng.

TÍNH CHẤT VẬT LÝ.

Nhựa nền--------------------------------------------------PE
Chỉ số chảy (190oC, 2.16kg; g/10phút)-------------------5
Khối lượng riêng (g/cm3)----------------------------------0.96
Hàm lượng họat chất (ppm)------------------------------- 3000
Hàm lượng ẩm (ppm)--------------------------------------< 1500
Hàm lượng các phụ gia khác (%)---------------------------5

PHƯƠNG PHÁP VÀ HÀM LƯỢNG SỬ DỤNG.

Phụ gia ASA 126 được áp dụng loại bỏ tĩnh điện cho nhựa PE với hàm lượng sử dụng từ 1 – 4% tùy thuộc vào độ dày vào công nghệ và chủng loại nhựa.
- Đối với màng film :
LLDPE – LDPE-------------------------------------- 0.5 – 1.5%.
HDPE-------------------------------------------------1 – 3%
- Đối với công nghệ thổi chai và ép phun:
LLDPE – LDPE---------------------------------------2 – 3%.
HDPE-------------------------------------------------2 – 4%
Các tác nhân trong phụ gia chống tĩnh điện ASA 126 có khuynh hướng di chuyển ra bề mặt sản phẩm nhằm loại bỏ tĩnh điện tích tụ trên sản phẩm. Do vậy ASA 126 một phần nào đó ảnh hưởng tới khả năng in ấn và khả năng hàn dán của sản phẩm. Khi sử dụng ASA 126 với hàm lượng ≈ 4 - 5% thì cần phải tăng mức độ xử lý corona và kiểm tra tốc độ hàn dán của sản phẩm.

BAO BÌ:
Phụ gia ASA 126 được đóng gói 25 trong bao PP dệt ghép giấy.

SAB 207

PHỤ GIA TRƯỢT VÀ CHỐNG ĐÓNG KHỐI

GIỚI THIỆU
Phụ gia trượt và chống đóng khối (Slip and Antiblock Agent) SAB 207 là sự kết hợp hoàn hảo giữa các tác nhân trượt Amide và tác nhân chống đóng khối Silica tổng hợp có kích thước hạt từ 50 – 100 nm nhằm tạo độ trơn, tăng khả năng chống đóng khối của sản phẩm nhưng không ảnh hưởng đến độ trong của sản phẩm.
Bên cạnh đó SAB 207 cũng góp phần tăng tính trượt, giảm hệ số ma sát của sản phẩm cuối cùng.

Được úng dụng rộng rãi trong ngành túi xốp: trong các trường hợp sau:
- Bao bì PE/PP bị nhiều phấn (bụi)
- Bao bì PP/PE khó mở miệng.

Tính chất Vật Lý
Nhựa nền -----------------------------------------------PE /PP
Chỉ số chảy (190oC, 2.16kg; g/10phút)-----------------5
Khối lượng riêng (g/cm3)-------------------------------- 0.98
Hàm lượng Silica tổng hợp (%)--------------------------10
Hàm lượng Erucamide (%)-------------------------------5
Hàm lượng ẩm (ppm)------------------------------------<1500
Hàm lượng các phụ gia khác (%)-------------------------5

PHƯƠNG PHÁP VÀ HÀM LƯỢNG SỬ DỤNG.


Phụ gia SAB 207 tạo hiệu quả trơn và chống đóng khối cho nhựa PE với hàm lượng sử dụng từ 1 – 4% tùy thuộc vào độ dày vào công nghệ và chủng loại nhựa.


- Đối với màng film : LLDPE – LDPE:--------------------- 0.5 – 1.5%.
HDPE-------------------------------- 1 – 3%
- Đối với công nghệ thổi chai và ép phun:
LLDPE – LDPE ----------------------2 – 3%.
HDPE--------------------------------- 2 – 4%


Các tác nhân trong phụ gia SAB 207 có khuynh hướng di chuyển ra bề mặt sản phẩm nhằm tạo độ trơn và chống đóng khối cho sản phẩm. Do vậy SAB 207 một phần nào đó ảnh hưởng tới khả năng in ấn và khả năng hàn dán của sản phẩm. Khi sử dụng SAB 207 với hàm lượng ≈ 4 - 5% thì cần phải tăng mức độ xử lý corona và kiểm tra tốc độ hàn dán của sản phẩm


BAO BÌ:
Phụ gia SAB 207 được đóng gói 25 trong bao PP dệt ghép giấy

PPA 606 (2)

PPA 606: CHẤT TRỢ GIA CÔNG
trợ thủ vô hình của công nghệ đùn

· Yêu cầu ngày càng khắc khe về công năng, thẩm mỹ cũng như giá thành của các sản phẩm nhựa luôn đặt các nhà sản xuất trước thách thức phải cải tiến không ngừng chất lượng sản phẩm và hiệu quả sản xuất. Chất trợgia công (Plastic Processing Aid – PPA) là một trong những sự hỗ trợ cần thiết và hữu ích cho nhu cầu trên
· Sản phẩm thương mại của công ty TNHH Phụ Gia & Nhựa Đồng Thuận là một trong những cố gắng bước đầu trong việc nội địa hóa các phụ gia hiện đang phải nhập khẩu tại thị trường Việt Nam. Bài viết này chỉ đề cập tới một khía cạnh nhỏ trong việc ứng dụng PPA 606 vào quá trình thổi màng (co – extrusion blowing film) cùng các hiệu quả mà PPA606 mang lại.Những ưu điểm của phụ gia PPA606
1. Phụ gia PPA606 giúp loại bỏ các hạt nhựa gel dù rất nhỏ xuất hiện trên màng thổi do no hạn chế sự phân hủy nhựa trên thành cylanh.
2. PPA 606 tựa như một chất bôi trơn bám trên bề mặt kim loại giúp giảm ma sát giữa dòng nhựa với các bề mặt. Do đó PPA 606 sẻ làm màng PE rất mịn và phẳng, loại bỏ hoàn toàn các hiện tượng "vảy cá", "da lươn", giúp tăng độ trong và bóng của màng thổi PE.

Qua các thí nghiệm khảo sát tại một số công ty sản xuất màng PE cho thấy: đối với hỗn hợp nhựa LDPE / LLDPE để đạt độ trong nhu mong muốn thì phải trộn với tỉ lệ 50%LDPE%LLDPE. Tỉ lệ này làm giảm đáng kể tính năng cơ lý của sản phẩm. Với sự hỗ trợ của PPA606, một hỗn hợp bao gồm 30%LDPE70%LLDPE sẽ có được độ trong mong muốn nhưng tính chất cơ lý được cải thiện nhiều hơn.















3.Trong thực tế để đáp ứng được nhu cầu đóng gói ở tốc độ cao, các nhà sản xuất phải phối trộn nhựa metalocene mLLDPE với Ziegler – Natta LLDPE. Thông thường độ nhớt của mLLDPE cao hơn độ nhớt của Ziegler – Natta LLDPE, việc trộn hỗn hợp nhựa có độ nhớt khác nhau sẽ dẫn đến sự mất ổn định của bong bóng trong quá trình thổi màng. PPA 606 có khả năng len lỏi vào giữa các mạch phân tử của hỗn hợp nhựa, nhờ vậy hỗn hợp nhựa được hóa dẻo và khả năng trộn hợp của các loại nhựa PE có độ nhớt khác nhau cũng tăng lên.

4. Chất trợ gia công là sự lựa chọn bắt buộc khi thổi màng LLDPE / ,LDPE trong trường hợp khuôn có khe die – gap nhỏ, nhỏ hơn hoặc bằng 1,8mm, nếu khuôn bị trầy xước hoặc bám cạn bẩn do vệ sinh không tốt. PPA 606 sẽ lấp đầy vết xước hoặc bao lấy các cạn bẩn – làm hạn chế sự xuất hiện của các dọc dọc trên màng.

5. Việc giảm ma sát giúp nhiệt độ của dòng nhựa trong khuôn xuống 10 – 15oC, đồng thời làm giảm áp xuất đùn trong cylanh nên sẽ giúp gia tăng năng suất và tiết kiệm điện năng tiêu thụ cho các máy thổi màng PE. Theo ước tính năng suất sẽ tăng lên 10 – 15% khi sử dụng PPA 606









Các nhà kỹ thuật đã nói một cách ví von rằng: Chất trợ gia công là trợ thủ vô hình của công nghệ đùn, do các tính năng ưu việt như đã nêu.

 

PPA 606 (1)

BẢNG TIÊU CHUẨN KỸ THUẬT PPA 606
PHỤ GIA TRỢ GIA CÔNG PPA 606

Khi thực hiện quá trình gia công LDPE hay LLDPE trên thiết bị đùn, trạng thái lưu biến của LLDPE hay LDPE khi nóng chảy dẫn đến rất nhiều vấn đề ảnh hưởng đến chất lượng sản phẩm và thiết bị. phụ gia trợ gia công PPA606 giúp khắc phục hoàn toàn các vấn đề trên, đặc biệt trên công nghệ sản xuất màng PE. PPA606 giải quyết hoàn toàn hiện tượng "vảy cá", "da lươn" trên màng PE, giúp giảm áp xuất đầu đùn, tăng khả năng trộn hợp giữa các LLDPE và LDPE. Đặc biệt còn có khả năng tăng độ dẻo dai của màng thổi PE
Tính chất vật lý
Nhựa nền ................................................................PE

Chỉ số chảy (1900C, 2.16kg , g/10 phút)...................4
Khối lượng riêng (g/cm3).........................................0.925
Hàm lượng ẩm (ppm)..............................................<1500

Phương Pháp và Hàm Lượng Sử Dụng Thông thường nên sử dụng PPA606 theo hai bước sau:

Bước 1: khi khởi động thiết bị đùn, nên tăng hàm lượng PPA 606 lên tới 10 – 20%. Hàm lượng này được duy trì trong khoảng thời gian từ 10 – 20 phút nhằm giảm ma sát giữa bề mặt của dòng nhựa với đầu khuôn và khuôn.
Bước 2: sau khoảng thời gian trên, hàm lượng sủ dụng PPA606 xuống còn 1 – 2% và duy trì suốt trong quá trình gia công.
Phụ gia trợ gia công không có ảnh hưởng đến khả năng hàn, dán hoặc tính chất xử lý Corona, cũng như khả năng bám dính của mực in hay keo ghép.
Phu gia trợ gia công cũng được dùng trong ngành đùn, thổi như: bao bì PE, đùn ống HDPE, kéo sợi PP …
Phụ gia trợ gia công PPA 606 được đóng gói trong bao PP dệt với khối lượng tịnh là 25kg.

DT - 751

GIỚI THIỆU
CHẤT TẨY "DT - 751"

MÔ TẢ:
DT - 751 chất lỏng màu vàng nhạt hoặc hồng nhạt, độ nhớt thấp, mùi hắc.
Nguồn Gốc Và Thành Phầm
Thành phần có chứa các chất hoạt động bề mặt, dung môi hòa tan nhựa và các hóa chất có hoạt tính tẩy rửa, được pha chế theo công thức và nguyên liệu tiên tiến của Nhật Bản.
Ứng Dụng
Công thức DT - 751 có tác dụng rất tốt trong việc làm sạch các bề mặt bị nhiễm bẩn bởi các màng polymer, đặc biệt hữu hiệu với các polymer cp gốc Polyurethane (PU). Vì vậy chúng thường được ứng dụng để tẩy mực in và keo ghép sử dụng trong kỹ thuật in và ghép bao bì mềm.
An Toàn và Sơ Cứu
DT - 751 rất nhạy cảm với da, vì vậy phải hết sức cẩn thậnkhi sử dụng dung dịch này. Nên mang theo găng tay cao su và đeo khẩu trang trước và khi sử dụng.
Nếu bị bám vào da, thì dùng thật nhiều nước lã để rửa sạch da và các bộ phận khác trên cơ thể.
Sau khi sử dụng xong, dugn dịch còn lại phải được đậy kỹ, cất vào nơi khô ráo, tránh xa tầm tay trẻ em, tránh lửa….
Hướng dẫn sử dụng

Qui trình vệ sinh trục bằng dung dịch chất tẩy rửa trục
Mô tả công việc ---------------------------------------------------- Thời gian yêu cầu
1---------------Lót màng keo bằng nhựa để chất bản không rơi vào máng

2-------------- Lắc đều thùng chứa dung dịch SP – 751-3, sau đó dùng cọ mềm quét phủ lên bề mặt trục lấy keo đang chạy ở tốc độ chậm (10- 30 vòng / phút)------------3 – 5 phút
3---------------Dừng trục lấy keo lại, để yên cho chất tẩy tác dụng với keo.---10- 15 phút.
4--------------Lại cho trục lấy keo quay ở tốc độ chậm (10 – 30 vòng / phút) nhúng bàn chải đồng (mềm) vào -dung dịch chất tẩy và chà mạnh lên bề mặt trục hoặc lên nơi có nhiều keo bám.-----10 – 15 phút
5--------------Đổ dung môi rửa thích hợp (EA, Toluenee hay MEK) lên trục và tiếp tục chà để loại bỏ lớp keo ị bong ra----------5 – 10 phút
6--------------Thấm đấm giẻ sạch với dung môi rửa thích hợp để chùi sạch trục nhằm laọi bỏ keo và chất tẩy còn lại (khoảng 2 - 3 lần)-----------5 - 10 phút.
7--------------Rửa trục lần cuối bằng bằng 1 -2 lít dung môi rửa. nếu không tiếp tục dùng giẻ sạch khô lau khô trục trước khi đem vào kho.-----------2 – 5 phút.

 

 

 

STT

Mã Sản Phẩm

Tên Sản Phẩm

ĐVT

Ứng Dụng

1

PPA 606

Phụ Gia Trợ Gia Công

Kg

Màng ghép, phức hợp

2

CGE - 106

Phụ Gia Tăng Độ Trong & Bóng

Kg

Màng ghép, phức hợp

3

ASA – 127

Phụ Gia Khử Tĩnh Điện

Kg

Phức hợp , túi xốp

4

SAB – 207

Phụ Gia Trượt & Chống Đóng Khối

Kg

Phức hợp , túi xốp

5

DT – 751

Chất Tẩy Rửa Trục Ghép / In Ấn

Kg

Trục in, trục ghép

6

CAF – 806

Chất Độn & Trợ Màu Trắng

Kg

Túi Xốp, màng ghép

7

Hạt PeakCal

TaiCal (CaCO3)

Kg

Túi Xốp, màng ghép, dệt bao PP

8

URA – 107

Chất chống tia tử ngoại

Kg

PP dệt, màng nông nghiệp

9

CIA – 307

Phụ Gia Tăng Trong PP

Kg

Túi PP

10

Hạt màu, Trục vít, đầu khuôn, hộp số

 

Sản xuất các sản phẩm

11

Chất hút ẩm, Hóa chất, dung môi …

 

Xứ lý…